🏓 Trích Tiểu Thuyết Suối Nguồn
Người ta nói, chuyện hậu sự của hai người -- kể cả kích thước và vị trí của các viên sỏi rải xung quanh ngôi mộ -- đã được thu xếp đâu vào đấy từ khi Shunkin còn sống. Mộ Shunkin cao hơn bốn thước rưỡi, còn mộ Sasuke chưa đầy ba thước. Hai ngôi một nằm trên bực thềm thấp lát đá, được của cây thông bên phải mộ Shunkin soi bóng mát.
Trích đoạn tiểu thuyết "CÁT TRỌC ĐẦU" của nhà văn Nguyễn Quang Vinh ( Trích ). Tiểu đội trưởng Xuân hớt hãi chạy đi tìm Nụ. Cô kéo Nụ về hầm, gọi cả mấy chị em trong tiểu đội cùng đến. Người giới thiệu : TRẦN KIẾN QUỐC Nguồn : Bạn Trỗi K5 Ảnh chụp
(Trích tiểu thuyết Suối nguồn, Ayn Rand, NXB Trẻ, TP HCM, 2017, tr 174) Thực hiện các yêu cầu sau: Câu 1. Nêu phương thức biểu đạt của đoạn trích. Câu 2. Cách loài người có thể tồn tại được tác giả nêu ra trong đoạn trích?
Kết bài: Ý nghĩa câu tục ngữ tốt gỗ hơn tốt nước sơn giúp ta nhận rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa hình thức bề ngoài và phẩm chất bên trong. Chính phẩm chất bên trong mới là yếu tố quyết định giá trị của vật của người. Hình thức bên ngoài góp phần làm đẹp và
Thực hành đọc hiểu: Nhật trình Sol 6 (Trích tiểu thuyết Người về từ Sao Hỏa) Soạn bài Nhật trình Sol 6 lớp 7 trang 70, 71 Tập 1 - Cánh diều Viết bài văn biểu cảm về một con người hoặc sự việc
Là 1 trong những tiểu thuyết lịch sử hào hùng Trung Quốc được La tiệm Trung viết vào cầm cố kỷ 14, đề cập về thời kỳ láo loạn Tam Quốc (190-280) với 120 chương hồi, theo cách thức bảy thực ba hư. 03 Suối nguồn - Ayn Rand - Sách Nói Online. 04 Suối mối cung cấp - Ayn
Tiểu thuyết. Tiểu thuyết khác; Tiểu thuyết phương tây; Tiểu thuyết trung quốc; Kĩ thuật. Công nghệ thông tin; Kiến trúc xây dựng; Đồ họa; Cơ điện; Thể loại khác. Đọc online. Văn học online. Văn học kinh điển; Văn học Nhật Bản; Văn học Việt Nam; Văn học nước ngoài
Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận xét: "Đọc Vũ Trọng Phụng, thấy ông có một khả năng chiếm lĩnh cuộc sống ở một tầm khái quát tổng hợp ít có những nhà tiểu thuyết cùng thời". Cuốn tiểu thuyết tiêu biểu nhất của Vũ Trọng Phụng chính là Số đỏ.
Trong cuốn tiểu thuyết Suối nguồn của nữ nhà văn Mỹ Ayn Rand (1905-1982), nhân vật (Trích tiểu thuyết Suối nguồn, Ayn Rand, NXB Trẻ, 2017, tr.1170-1171). Từ phát biểu của nhân vật Howard Roark, anh/chị hãy viết bài văn bày tỏ suy nghĩ của
h7ivssV. “Suối nguồn” viết về một cuộc sống tôn vinh con người và định hướng về một thế-giới-như-nó-phải-là theo lý tưởng của Ayn Rand. Tác phẩm là cuốn sách dành cho những linh hồn chính trực, những trái tim nhiệt huyết, quyết liệt, miệt mài theo đuổi đam mê và cháy bỏng đến tận cùng, dù sự tận cùng đó phải vật vã từ trong đau đớn tuyệt vọng, điểm đích từ đống tro tàn vẫn là phượng hoàng tái sinh. Theo bình chọn của độc giả Modern Library – một công ty xuất bản của Mỹ, “Suối nguồn” tựa tiếng Anh The Fountainhead là một trong hai tác phẩm đứng đầu bảng xếp hạng những tiểu thuyết hay nhất thế kỷ XX. Bản thảo của cuốn sách đã từng bị 12 nhà xuất bản từ chối vì nhận định sẽ không bán được vì không tồn tại độc giả cho nó, vì quá triết lý, vì quá nhạy cảm, và cuối cùng – “Suối nguồn” đã được chào đón nồng nhiệt – hơn 6,5 triệu bản sau 76 năm kể từ khi xuất bản lần đầu năm 1943 được bán trên khắp thế giới, được dịch ra nhiều thứ tiếng, và vẫn liên tục được tái bản hằng năm. Ayn Rand trở thành tác giả có ảnh hưởng lớn nhất đến độc giả Mỹ trong thế kỷ XX. Ảnh lienbn13 1200 trang, 7cm, vừa vặn một chiếc gối đầu theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Cũng như nhiều tác phẩm hay và nổi tiếng long trời lở đất khác, “Suối nguồn” đồ sộ về hình thức cũng như nội dung, dùng để gối đầu cũng được, dùng để gặm nhấm từng câu từ mỗi lúc cần thư giãn cũng được. Tác phẩm gồm 60 chương nằm trong 4 phần lấy tên của 4 nhân vật Peter Keating, Ellsworth M. Toohey, Gail Wynand, Howard Roark. Ayn Rand viết theo một kết cấu ma quái, có chủ đích. Có khi mỗi chương là một thể song song, mỗi đường thẳng dành cho một nhân vật. Có khi mỗi phần lại mang cấu trúc lội ngược dòng từ hiện tại về quá khứ. Tưởng lộn xộn, mà xuôi dòng. Để khi lật đến trang 1199, người đọc vẫn có thể dễ dàng hình dung lại trong trí nhớ tất cả những gì đã đọc qua. Thiết kế hình mẫu lý tưởng của Ayn Rand là một kiến trúc sư thiên tài – Howard Roark – nhân vật chính. Xuyên suốt tác phẩm, Howard là người tự chủ, chính trực, không khoan nhượng. Anh thiết kế các tòa nhà một cách trung thực và sáng tạo theo nguyên tắc phải phù hợp với vị trí, vật liệu và mục đích. Anh là một người theo chủ nghĩa hiện đại, không có hứng thú bắt chước, vay mượn hay chắp vá từ truyền thống, cũng không chấp nhận sự phê duyệt bởi những người khác, bao gồm cả các nhà lãnh đạo hay chuyên gia trong lĩnh vực kiến trúc. Các nhà phê bình và đối thủ cạnh tranh của Howard bị đe dọa và xúc phạm bởi thái độ cũng như tài năng của anh. Họ là Peter Keating – một kiến trúc sư thành công bằng cái miệng và sự vay mượn, gian lận, chơi bẩn. Họ là Ellsworth Toohey – một chủ bút của tờ Ngọn cờ, tự nhận mình là chuyên gia về kiến trúc, ông ta thâu tóm dư luận, một con người theo đuổi quyền lực thống trị tinh thần… Ngồn ngộn người trong đám dư luận ấy chống lại Howard, dưới sự dẫn dắt của Ellsworth. Gail Wynand là cuộc đời thành công từ nghèo khó. Ông là chủ tờ Ngọn cờ – một tờ báo đáng khinh phát triển dựa trên những tin giật gân. Gail đã phải trả giá bằng danh dự của mình để có được một vị trí mà ở đó ông có thể tiêu khiển bằng cách xem những người khác thể hiện danh dự của họ như thế nào. Cuộc gặp gỡ với Howard và các công trình của anh đã đánh thức linh hồn chính trực trong Gail, nhưng quá trễ để cứu rỗi ông. Nhân vật thú vị nhất, có lẽ là Dominique Francon, một cô nàng được xây dựng hết sức diệu kỳ – dù qua bao nhiêu sự phi lý mà cô đã làm thì cũng chỉ là phông nền làm bật lên tình yêu cô dành cho Howard. “Suối nguồn” có một kết thúc đẹp, đúng với mục đích ngay từ đầu của Ayn Rand là xây dựng một hệ thống xã hội ở đó Howard Roark – con người lý tưởng của bà có thể tồn tại và hoạt động. Một hệ thống tự do, hiệu quả, hợp lý. Điểm hấp dẫn của “Suối nguồn” chính là quá trình đấu tranh, kiên trì và không khoan nhượng của Howard, để kết quả cuối cùng là hệ thống xã hội đó tưởng thưởng anh và tưởng thưởng cho những năng lực tốt đẹp nhất trong mỗi con người. ảnh toicotheviet Quyền lực của ngôn từ. Sẽ là thiếu sót nếu như không nói đến thứ quyền lực này trong “Suối nguồn” – thứ quyền lực tạo nên sự thành công của Ellsworth Toohey, thứ quyền lực khiến ông ta được tôn sùng như một vị thánh. “Ông không lê bước nặng nhọc qua các thế kỷ; ông khiêu vũ – các nhà phê bình nói – trên đại lộ của các thời đại, như một anh hề, một người bạn, và một nhà tiên tri.” Đó là cái cách mà Ellsworth sử dụng ngôn từ. Với dáng người nhỏ thó, sức khỏe yếu ớt, nhưng mọi người lại không có ấn tượng về vẻ ngoài đó của ông. Ellsworth luôn được nhớ đến là người đàn ông có giọng nói du dương như tiếng đàn, và thông minh với tài hùng biện xuất sắc. Ellsworth hiểu thế giới hiện tại, hiểu những gì đang diễn ra, về lòng người, về tôn giáo, về quyền năng của ngôn ngữ… Ông ta đóng vai như người cha đạo nghe rất nhiều lời xưng tội, và rồi đưa những con chiên đó vào trò chơi của mình, ngắm chúng quay lòng mòng dưới sự điều khiển của ông ta. Ellsworth “tự xưng” là một nhà tư tưởng hiện đại cho chủ nghĩa vị nhân sinh. Ông ta rao giảng rằng vị nhân sinh là học thuyết đòi hỏi con người phải sống vì người khác và đặt những người khác lên trên bản thân mình. Ông ta bám vào đó để phá hủy cái tôi và linh hồn của người khác, tạo ra những hạng người sống thứ sinh, thao túng tinh thần họ, hướng tới mục tiêu cuộc đời ông ta – quyền lực, cai trị, lãnh tụ tinh thần. Ngôn từ là một thành quả vĩ đại của nhân loại, không đơn thuần là công cụ để giao tiếp, nó còn là một bộ máy truyền tải nhiều loại hình nghệ thuật. Nhưng nếu bị lợi dụng bởi những kẻ như Ellsworth, ngôn từ sẽ trở thành thứ vũ khí đáng sợ, giống như cách mà các tôn giáo cực đoan tuyên truyền và tẩy não những người anh em thiện lành. Ayn Rand vẽ nên một bức tranh đầy sinh động để độc giả dễ dàng hiểu được mức độ nguy hiểm khi có người vận dụng từ ngữ một cách thông minh xảo quyệt để định hướng đám đông vì mục đích xấu. Bất hạnh của con người – sống thứ sinh. Nguyên văn, Ayn Rand dùng từ “second – handers” để chỉ hạng người này. Thứ sinh có nghĩa là không sinh ra từ bản thân chủ thể hành động hoặc cảm xúc mà chỉ phản ánh từ người khác. Người sống thứ sinh là người sống với mục đích gây ấn tượng với người khác bằng danh vọng, sự ngưỡng mộ, sự ghen tị… lấy sự đánh giá của người khác làm thước đo bản thân. Không muốn giỏi, mà muốn được nghĩ là giỏi. Không muốn lao động, mà ra vẻ lao động và muốn được nghĩ là lao động giỏi. Đó chính là những con người hoàn toàn không quan tâm tới mình muốn gì hay nghĩ gì, mà chỉ quan tâm đến người khác nghĩ gì về bản thân và hành động theo ảo tưởng đó. Peter Keating là điển hình của hạng người sống thứ sinh trong “Suối nguồn”, là sản phẩm và vũ khí hoàn hảo của Ellsworth. Anh ta muốn được vĩ đại trong mắt người khác, muốn người ta đóng kịch để giúp cho vai kịch của anh – một vai kịch đẹp đẽ, phức tạp với tất cả kịch tính, tỉa tót, đỏm dáng. Thế giới sẽ ra sao nếu chỉ có toàn những kẻ sống thứ sinh luôn ăn bám sống nhờ bộ óc của người khác, những kẻ không lao động, không tư duy, không sản xuất, không sáng tạo? Tôn vinh con người không đồng nghĩa với coi thường chủ nghĩa vị nhân sinh. Trong định hướng về một thế-giới-như-nó-phải-là theo lý tưởng của Ayn Rand, ở đó cuộc sống tưởng thưởng người sáng tạo, người chính trực, người tư duy và làm việc độc lập với bộ óc của riêng mình mà không cần lệ thuộc vào bất kỳ phán xét, đánh giá từ người khác. Mục đích của Ayn Rand là tôn vinh người sáng tạo, dẫn đường cho con người hướng về một cuộc sống có ý nghĩa, tìm được giá trị của bản thân. Hệ thống nhân vật trong “Suối nguồn” đơn giản nhưng đặc trưng, mà thông qua đó Ayn Rand mở ra nhân quả của từng người, kết quả của mỗi người tùy thuộc vào việc họ đã đối xử với bản thân mình như thế nào, chăm sóc linh hồn mình như thế nào. Peter phản bội linh hồn mình. Gail bán đi linh hồn mình và phá hủy những linh hồn chính trực khác. Dominique không chịu đựng được cảnh những linh hồn bị chà đạp và chiến đấu, thậm chí là đày đọa thể xác để cứu rỗi linh hồn mình. Catherine để mặc cho linh hồn mình bị chà đạp. Ellsworth thâu tóm linh hồn nhưng cũng chỉ là một kẻ rỗng tuếch. Howard nuôi dưỡng một linh hồn chính trực, anh chăm sóc và nâng niu nó, từ mầm non trở thành cổ thụ, chưa một giây phút nào anh đánh mất. “Suối nguồn” tôn vinh những con người chính trực dám là chính mình, nhưng không có nghĩa là phản bác chủ nghĩa vị nhân sinh, mà tác giả chỉ ra chỗ mà người ta đánh tráo khái niệm vị nhân sinh để phá hủy cái tôi của mỗi người – chính là cái cách mà Ellsworth đã làm. Vị nhân sinh trong tư tưởng của Ellsworth là một thứ vị nhân sinh đã bị bóp méo đi, nói như lời của Howard rằng “Loài người đã được dạy dỗ rằng đức tính tốt đẹp nhất không phải là đạt được một cái gì đó mà là cho đi một cái gì đó. Nhưng một người không thể cho đi những gì mà anh ta không tạo ra. Đầu tiên phải có sáng tạo, sau đó mới là phân phối, nếu không thì chẳng có gì để phân phối cả. Phải có người sáng tạo trước khi có những người hưởng lợi từ sự sáng tạo.” Bởi sự đánh tráo khái niệm vì mục đích xấu của những người “tự xưng” là vị nhân sinh, mới tạo ra một đám đông không có cái tôi. Điều đáng nhận xét trong bất kỳ một sự việc gì là tốt hay xấu, không phải vị kỷ hay vị nhân sinh. Có nên tranh cãi về “Suối nguồn” hay không? Câu trả lời là không! Không hề! Đây là một tác phẩm không nên gây tranh cãi nhưng đã gây nên quá nhiều tranh cãi. Bùng nổ là những vấn đề vị kỷ hay vị nhân sinh, chủ nghĩa cá nhân hay chủ nghĩa tập thể… Tại sao lại phải tranh cãi về một tiểu thuyết văn-học-lãng-mạn? Khi mà tác giả đã nhận định ngay từ đầu – theo ngôn ngữ của Aristotle thì văn học lãng mạn không quan tâm tới thế-giới-như-nó-đang-là things as they are, mà tới thế-giới-như-nó-có-thể-là và phải-là things as they might be and ought to be? Với câu hỏi “Suối nguồn” có được viết để trình bày các quan điểm triết học của bản thân hay không? Ayn Rand đã trích lại từ bài viết “Mục đích văn chương” mà bà đã trình bày ở Đại học Lewis và Clark vào ngày 1/10/1963 để trả lời câu hỏi này “Động cơ và mục đích của tôi khi viết văn là khắc họa hình ảnh con người lý tưởng. Mục tiêu rốt ráo nhất của tôi là khắc họa một mẫu người lý tưởng về đạo đức; tất cả các giá trị triết học, giáo dục, hay nhận thức trong tiểu thuyết chỉ là phương tiện để đạt mục tiêu rốt ráo ấy. Tôi xin được nhấn mạnh điều này Mục đích của tôi không phải là khai sáng độc giả về mặt triết học. Mục đích của tôi – mục đích cơ bản và rốt ráo nhất – là khắc họa chân dung Howard Roark như cái đích tự thân.” Nghĩa là Ayn Rand thiết kế một con người lý tưởng về đạo đức và một cuộc sống tôn vinh con người lý tưởng ấy trong happy-ending! Nghĩa là Ayn Rand hướng đến lý tưởng chứ không phải lột tả hiện thực. Hãy đưa ra ý kiến bản thân, lý luận hay tranh cãi bất cứ điều gì với đối tượng là triết gia Ayn Rand và những tiểu luận ngoài hiện thực của bà, chứ không phải là đối với tiểu thuyết gia Ayn Rand hay tác phẩm văn học lãng mạn như “Suối nguồn”! Suối nguồn là dòng nước trong lành nhất nhưng chảy xiết, nhiều gấp khúc, đôi lúc cuồng loạn đến nghiệt ngã. Nên xem tác phẩm “Suối nguồn” là cuốn sách như chính cái tựa đề mà nó được gọi tên, để đọc lên những lúc hoang mang bất định, để được gột rửa bằng dữ dội và dịu êm, để thổi bùng ngọn lửa đam mê trong người, để dám là chính mình và tiếp tục sống vì lý tưởng của bản thân. Về tác giả Ayn Rand. Ayn Rand 1905 – 1982 tên khai sinh Alisa Zinov’yevna Rosenbaum, là tiểu thuyết gia, đồng thời là nhà triết học người Mỹ gốc Nga. Với niềm đam mê mãnh liệt cho nghệ thuật tự do, bà bắt đầu viết kịch vào năm 8 tuổi và tiểu thuyết năm 10 tuổi. Lựa chọn này dẫn dắt bà chọn Hoa Kỳ làm điểm dừng chân, trở thành nhà văn với hàng triệu bản được bán. Dưới vai trò là triết gia, Ayn Rand nổi tiếng vì đã phát triển học thuyết Chủ nghĩa khách quan. Với vai trò là nhà văn, bà cho ra đời nhiều tác phẩm mang giá trị lớn, có hư cấu và phi hư cấu, có tiểu thuyết và tiểu luận We the Living Chúng ta những kẻ sống, The Fountainhead Suối nguồn, Atlas Shrugged Atlas vươn mình, For the new Intellectual Vì giới tri thức mới và tiểu thuyết ngắn Anthem Bài ca tư tưởng… Ayn Rand là người có ảnh hưởng rộng lớn tại Mỹ thời hậu chiến tranh thế giới thứ hai. Có một Website chính thức được dựng lên để tưởng nhớ nhà văn này Link mua sách này giá tốt Fahasa Tiki Lazada Shopee Nếu bạn thấy bài viết này hay, xin ủng hộ team bằng cách dành thêm một giây để click vào quảng cáo. Chỉ 1s thôi, nhưng là cách tuyệt vời để duy trì blog mãi mãi
Giới thiệuTác phẩm đứng đầu bảng xếp hạng những tiểu thuyết hay nhất thế kỷ 20 do độc giả bình chọn theo điều tra của New York Time– Đã bán được 6 triệu bản trong hơn 60 năm qua kể từ khi xuất bản lần đầu năm 1943.– Được dịch ra nhiều thứ tiếng và vẫn liên tục được tái bản hàng năm.– Một tiểu thuyết kinh điển cần đọc nay đã có mặt tại Việt Nam với bản dịch tiếng Việt.“Một tiểu thuyết tràn đầy sức sống và sự thú vị … mạnh mẽ, kịch tính, mãnh liệt và rành mạch từ đầu đến cuối … một tác phẩm tuyệt vời đáng để đọc.”Saturday Review of Literature“Tôi có thể ca ngợi tiểu thuyết này ở nhiều khía cạnh… sự kiện hấp dẫn…những nhân vật đầy màu sắc… táo bạo… thông minh phi thường.” – New York Herald Tribune“Bạn không thể đọc tác phẩm tuyệt vời này mà không liên tưởng đến một số tư tưởng cơ bản của thời đại chúng ta… Bạn sẽ nghĩ đến The Magic Mountain và The Master Builder khi bạn nghĩ đến The Fountainhead Suối nguồn.” – New York Times“… Trong lịch sử nhân loại, hiếm thấy ai phát biểu quan điểm này về con người. Ngày nay, quan điểm này hầu như không tồn tại. Tuy nhiên, chính quan điểm này – dù tồn tại ở các cấp độ khác nhau của sự khao khát, ao ước, đam mê và hoang mang đau khổ – là quan điểm khởi đầu cuộc sống của những người ưu tú nhất của nhân loại. Đối với đa số họ, đây thậm chí không phải là một quan điểm rõ ràng mà chỉ là một cảm giác mơ hồ, khó nắm bắt, nó được tạo thành từ những nỗi đau trần trụi và từ niềm hạnh phúc không thể diễn tả nổi. Nó là cảm giác về một kỳ vọng lớn, rằng cuộc sống của một người là quan trọng, rằng những thành tựu lớn lao có thể nằm trong khả năng, và rằng những điều vĩ đại còn nằm phía chất của con người – và của bất cứ sinh vật nào – không phải là đầu hàng, hoặc phỉ nhổ và nguyền rủa sự tồn tại của mình; điều ấy thực ra đòi hỏi cả một quá trình suy đồi mà tốc độ của nó tuỳ thuộc mỗi người. Một vài người đầu hàng vào lần đầu tiên tiếp xúc với áp lực; một vài người mặc nhiên đầu hàng; một số khác đi xuống từ từ và cứ thế mất dần ngọn lửa mà chính họ cũng không hề nhận ra nó đã tàn lụi như thế nào. Sau đó, tất cả biến mất trong cái đầm lầy khổng lồ gồm những người già cỗi, những người rao giảng rằng trưởng thành bao hàm việc chối bỏ chính kiến, rằng sự ổn định bao hàm việc chối bỏ những giá trị riêng, và rằng sống thực tế có nghĩa là phải gạt bỏ sự tồn tại. Chỉ một số ít người kiên quyết không đầu hàng và tiếp tục tiến lên; họ biết rằng không thể phản bội ngọn lửa kia; họ học cách nuôi dưỡng nó, cho nó hình hài, mục đích và sự sống… Tóm lại, dù tương lai mỗi người khác nhau, ở vào thời điểm bắt đầu cuộc sống, nhân loại luôn tìm kiếm một hình ảnh cao cả về bản chất con người cũng như về cuộc rất ít cột chỉ đường trong cuộc tìm kiếm này. Suối nguồn là một trong những cột chỉ đường đó. Đây chính là một trong những lý do cơ bản nhất khiến cho suối nguồn có sức hấp dẫn lâu dài; nó tái khẳng định tinh thần của tuổi trẻ, nó tuyên bố về chiến thắng của con người, nó chỉ ra người ta có thể làm được những gì…”.Đọc thửHoward Roak cười đứng trần truồng trên một mỏm đá. Hồ nước nằm sâu dưới chân anh. Phía trên mặt nước tĩnh lặng, những khối đá granit sừng sững vươn thẳng lên trời. Dường như mặt nước nằm bất động trong khi các khối đá cứ từ dưới nước vươn lên cao. Những khối đá mang sự bất động vẫn thấy ở một trận chiến khi vũ khí hai bên xô vào nhau; trong khoảnh khắc ấy, mọi thứ chững lại trong một trạng thái tĩnh còn sôi sục hơn mọi chuyển động. Những phiến đá lấp lánh, sũng ánh mặt nước bên dưới chỉ còn như một vòng thép mỏng cắt đôi các khối đá. Những tảng đá cứ thế cắt xuyên xuống dưới mặt nước sâu, không hề thay đổi. Chúng bắt đầu với bầu trời trên cao rồi lại kết thúc với bầu trời khác phía dưới mặt nước. Như thế, cả thế giới trở nên lơ lửng trong không trung – một hòn đảo bồng bềnh trôi trong hư không và chỉ được neo vào bàn chân của người đang đứng trên mỏm thể anh tựa vào bầu trời. Đấy là một cơ thể gồm toàn đường thẳng và góc nhọn, mỗi một đường uốn đều bị bẻ vỡ thành những mặt phẳng. Anh đứng đó, bất động, hai tay buông dọc hai bên sườn, lòng bàn tay mở. Anh cảm thấy bả vai mình căng lên; anh cảm thấy rõ đường lượn trên cổ và máu dồn nặng xuống hai bàn tay. Anh cảm thấy gió ở sau lưng, luồn qua cái hốc lõm ở gáy. Gió thổi tóc anh vẫy trên nền trời. Đó là một mái tóc không vàng cũng không đỏ, mà chính xác là màu vỏ cam cười vào cái điều đã xảy ra với anh vào sáng hôm đó và vào những thứ sắp cố thử cân nhắc. Nhưng rồi anh lại quên. Anh đang nhìn vào những khối đá không cười nữa khi mắt anh chững lại trong nhận thức về mặt đất xung quanh. Khuôn mặt anh giống như một quy luật của tự nhiên – một thứ mà người ta không thể chất vấn, thay đổi hoặc van xin. Đó là một khuôn mặt với xương gò má cao, nhô lên trên hai hõm má gầy, trũng; đôi mắt xám, lạnh và kiên định; cái miệng khinh khỉnh, mím chặt – miệng của một tên đao phủ hoặc một vị nhìn những khối đá granit. Chúng sẽ được cắt để làm thành những bức tường. Anh nhìn một cái cây. Nó sẽ được xẻ lấy gỗ làm xà nhà. Anh nhìn một vệt gỉ sắt trên đá và nghĩ đến quặng sắt dưới lòng đất. Chúng sẽ được nấu chảy và luyện thành những trụ sắt vươn thẳng lên tảng đá này – anh nghĩ – chúng nằm đây cho ta; chúng chờ đợi mũi khoan, thuốc nổ và hiệu lệnh của ta; chúng chờ được cắt, xẻ, nghiền và tái sinh; chúng mong ngóng cái hình hài mà bàn tay ta sẽ mang lại cho đó anh lắc đầu vì anh nhớ đến buổi sáng hôm đó và nhớ ra rằng có rất nhiều việc phải làm. Anh bước đến mỏm đá, giơ cao hai tay và lặn vào bầu trời bên bơi thẳng qua mặt hồ để đến bờ bên kia. Anh tiến đến tảng đá nơi anh để quần áo của mình. Anh nhìn quanh mình một cách luyến tiếc. Trong suốt ba năm kể từ khi anh đến sống ở Stanton, đây là chỗ thư giãn duy nhất của anh anh đến đây bất kỳ lúc nào anh có được một giờ nghỉ ngơi vốn rất hiếm hoi. Anh đến để bơi, để nghỉ, để nghĩ, để được một mình và để được sống. Trong sự tự do mới của mình, điều đầu tiên mà anh muốn làm là tới đây, vì anh biết rằng đây sẽ là lần cuối cùng anh đến. Buổi sáng hôm đó anh đã bị đuổi khỏi khoa Kiến trúc của Học viện Công nghệ mặc quần áo lên người một chiếc quần bò cũ, đôi xăng-đan, cái áo sơmi cộc tay hầu như không còn khuy. Anh nhảy xuống con đường hẹp giữa những tảng đá, bước xuống con đường mòn chạy xuyên qua một triền đồi phủ đầy cỏ xanh, rồi ra con đường cái bên bước nhanh, cử động thư thái và trễ nải. Anh đi bộ dọc theo đường cái, dưới ánh mặt trời. Phía xa, thị trấn Stanton nằm trải dài dọc theo bờ biển Massachusetts, một thị trấn nhỏ làm nền cho viên ngọc của nó – học viện Stanton nổi tiếng trên ngọn đồi xa trấn Stanton bắt đầu với một bãi rác. Một cái gò chôn chất thải xám xịt nổi lên trên mặt cỏ. Nó nhả những làn khói yếu ớt. Vỏ hộp thiếc loang loáng phản chiếu ánh nắng mặt trời. Con đường chạy ngang qua những ngôi nhà đầu tiên dẫn đến nhà thờ. Nhà thờ là một tượng đài kiểu Gothic với những tấm ván lợp sơn màu xanh da trời nhạt. Nó có những trụ tường bằng gỗ đồ sộ mà chẳng để đỡ cái gì cả. Nó có những cửa sổ kính màu với những mẫu trang trí nặng nề làm giả chất liệu đá. Nó mở ra con phố dài, hai bên là những bãi cỏ hẹp đầy phô trương. Phía sau những bãi cỏ là những khối gỗ bị tra tấn và biến thành đủ mọi hình thù chúng bị vặn xoắn thành các đầu hồi nhà, các tháp canh, các cửa sổ mái; chúng bị bóp phình ra thành những hàng hiên; chúng bị đè nặng dưới những mái nhà dốc, kềnh càng. Những rèm cửa màu trắng bay phất phơ ở các cửa sổ. Một thùng rác bên cạnh cửa hông bị lật úp xuống. Một con chó Nhật già ngồi trên cái đệm chùi chân trước bậc cửa, miệng nhỏ đầy nước dãi. Một dãy tã trẻ con bay phấp phới trong gió giữa những hàng cột của một hiên người quay nhìn Howard Roark khi anh đi ngang qua. Một số vẫn tiếp tục nhìn chằm chằm theo anh với một sự phẫn nộ mà họ đột ngột cảm thấy. Họ không thể giải thích được sự phẫn nộ này nó là một thứ bản năng bị sự hiện diện của anh đánh thức. Howard Roark thì không nhìn thấy bất kỳ ai. Đối với anh, các đường phố đều trống trơn. Anh đã có thể trần truồng đi bộ trên đường mà chẳng ngại đi cắt ngang qua trung tâm thị trấn Stanton. Đó là một thảm cỏ xanh rộng với các cửa hiệu bao quanh. Cửa sổ của những cửa hiệu này trưng bày những tấm áp phích mới với dòng chữ LỄ BẾ GIẢNG KHÓA 22! CHÚC KHÓA 22 MAY MẮN! Chiều hôm đó, khóa 22 của Học viện Công nghệ Stanton tổ chức lễ bế rẽ ngoặt vào một phố nhỏ; ở cuối dãy nhà dài, trên một cái gò nhỏ nằm cạnh một lạch nước xanh là nhà của bà Keating. Anh đã ở trọ tại căn nhà này trong ba năm Keating đang đứng ở hiên trước. Bà đang cho cặp hoàng yến ăn trong một cái lồng chim được treo trên thanh rào chắn. Bàn tay mập và ngắn của bà chững lại khi bà nhìn thấy anh. Bà nhìn anh với ánh mắt tò mò. Bà cố kéo đôi môi để gương mặt bà thể hiện một sự cảm thông thích hợp; nhưng nỗ lực của bà chỉ dừng lại ở việc tỏ ra bà đã không phải cố đi qua hiên trước mà không nhận ra bà. Bà ngăn anh lại.“Cậu Roark!”“Vâng?”“Cậu Roark, tôi lấy làm tiếc về chuyện…” bà ngập ngừng, “- về chuyện xảy ra sáng nay.”“Chuyện gì ạ?” anh hỏi.“Chuyện cậu bị đuổi khỏi Học viện. Thật khó mà nói hết là tôi thấy tiếc cho cậu thế nào. Tôi chỉ muốn cậu biết rằng tôi rất thông cảm với cậu.”Anh đứng nhìn bà. Bà biết rằng anh không hề nhìn bà. Không, bà nghĩ, nói thế cũng không đúng. Cậu ta luôn nhìn thẳng vào người đối diện, và đôi mắt chết tiệt của cậu ta không bao giờ bỏ sót một thứ gì; có điều… cậu ta luôn làm cho người đối diện cảm thấy họ không tồn vẫn đứng nhìn. Anh không trả lời.“Nhưng điều mà tôi muốn nói là,” bà tiếp tục, “nếu một người nào đó phải chịu đau khổ trong thế giới này, thì đó là do lỗi của chính người đó mà thôi. Tất nhiên, giờ thì cậu sẽ phải từ bỏ nghề kiến trúc sư, có phải vậy không? Nhưng mà một thanh niên luôn có thể kiếm sống bằng nghề nhân viên văn phòng, hay nghề bán hàng hay một nghề nào đó.”Anh quay người bước đi.“À, cậu Roark!” – bà gọi anh.“Vâng?”“Ông Trưởng khoa gọi điện cho cậu lúc cậu ra ngoài.”Bà mong nhìn thấy một biểu hiện cảm xúc nào đó của anh, dù chỉ một lần; nhìn thấy anh biểu hiện cảm xúc cũng tương đương với nhìn thấy anh suy sụp. Bà không biết cái gì ở anh làm cho bà luôn mong được nhìn thấy anh bị suy sụp.“Vâng?” anh hỏi bà.“Ông Trưởng khoa” bà nhắc lại với giọng kém tự tin, cố gắng tạo lại trọng lượng cho câu nói của mình. “Chính là ông Trưởng khoa, thông qua thư ký của ông ta.”“Thì sao ạ?”“Cô ta nhờ tôi nói với cậu là ông Trưởng khoa muốn gặp cậu lập tức, khi nào cậu về nhà.”“Cảm ơn bác.”“Cậu nghĩ giờ thì ông ta muốn gì?”“Cháu không biết.”Anh đã nói “Cháu không biết.” Nhưng bà đã nghe rất rõ “Cháu không quan tâm.”Bà nhìn chằm chằm vào anh với vẻ hoài nghi.“Tiện thể” bà nói, “hôm nay Petey sẽ tốt nghiệp.” Giọng của bà không để lộ bất kỳ ngụ ý nào.“Hôm nay ạ? À, vâng.”“Hôm nay là một ngày tuyệt vời đối với tôi. Khi tôi nghĩ đến chuyện tôi đã phải tằn tiện và khổ sở đến mức nào để có thể cho thằng bé đến trường. Không phải là tôi đang phàn nàn đâu. Tôi không phải là loại người hay kêu ca. Petey là đứa bé có tài.”Bà căng người lên. Cơ thể thấp mập của bà bị bó chặt trong những nếp gấp được hồ cứng của cái váy sợi bông khiến cho bao nhiêu mỡ dường như phòi hết ra ở cổ tay và cổ chân bà.“Nhưng tất nhiên là,” bà nói nhanh, đầy hứng khởi về chủ đề yêu thích của mình, “Tôi không phải là người thích khoe khoang. Có những bà mẹ may mắn và có những người khác thì không được vậy. Ai xứng đáng thế nào thì được như thế. Đấy rồi cậu cứ theo dõi thằng Petey mà xem. Tôi không phải kiểu người thích ép con trai mình chết vì làm việc; và tôi sẽ cảm tạ Chúa nếu như Chúa cho nó bất cứ thành công nhỏ nào trong sự nghiệp. Nhưng nếu thằng bé đó không trở thành kiến trúc sư nổi tiếng nhất của cái Liên bang Hoa Kỳ này, thì mẹ của nó sẽ muốn biết lý do tại sao!”Anh dợm bước đi.“Nhưng mà tôi đang làm gì thế này; lại cứ nói chuyện tầm phào với cậu” – bà nói một cách hào hứng. “Cậu phải khẩn trương lên; thay quần áo rồi chạy đến trường đi. Ông Trưởng khoa đang chờ cậu.”Bà đứng nhìn anh qua cái cửa lưới, lặng lẽ theo dõi dáng người gầy guộc của anh di chuyển ngang qua căn phòng khách được sắp xếp ngăn nắp đến mức cứng nhắc. Anh luôn làm cho bà thấy không thoải mái trong ngôi nhà một cảm giác e ngại mơ hồ, như thể bà luôn chờ anh đột ngột đu người từ đâu xuống, đập tan những cái bàn uống cà phê, những lọ hoa Trung Quốc và những bức ảnh đóng khung của mình. Anh chưa từng biểu lộ xu hướng ấy. Nhưng bà vẫn thấp thỏm chờ đợi mà không biết tại đi lên cầu thang về phòng mình. Đó là một căn phòng lớn, trống rỗng. Một lớp sơn trắng sạch sẽ làm căn phòng sáng lên. Bà Keating chưa bao giờ có cảm giác Roark thực sự sống ở đây. Anh không hề bổ sung thêm bất kỳ vật dụng nào ngoài những đồ đạc tối cần thiết mà bà trang bị cho căn phòng; không tranh ảnh, không đồ trang trí, không dấu vết ấm áp nào của bàn tay con người. Anh không đem vào phòng bất kỳ thứ gì ngoại trừ quần áo và các bản vẽ chỉ có một vài bộ quần áo và quá nhiều bản vẽ; chúng được chất cao ngất trong góc phòng. Đôi khi bà nghĩ rằng các bản vẽ, chứ không phải một con người, đang sống ở tiến về phía những bản vẽ; chúng là những thứ đầu tiên phải đóng gói. Anh cầm một trong số những bản vẽ đó lên, rồi bản tiếp theo, rồi thêm một bản nữa. Anh đứng nhìn những tấm giấy là phác thảo những tòa nhà chưa từng tồn tại trên bề mặt trái đất. Chúng như những ngôi nhà đầu tiên được xây dựng bởi người đàn ông lần đầu tiên sinh ra trên mặt đất, người chưa từng biết tới bất cứ tòa nhà nào xây dựng trước đó. Không có gì để nói về những tòa nhà này, ngoại trừ việc cấu trúc của chúng chắc chắn phải là như thế. Không phải một kiến trúc sư nào đó đã ngồi nghĩ về chúng, cân nhắc một cách tỉ mẩn, chắp nối những cửa chính, cửa sổ và cột nhà theo những ý nghĩ nảy ra bất chợt trong đầu anh ta hoặc theo những gì anh ta học từ sách vở. Trái lại, những ngôi nhà như mọc lên từ lòng đất và từ một sức mạnh sống nào đó chúng hoàn thiện và không thể thay đổi được. Dĩ nhiên bàn tay đã vẽ những đường chì sắc nét kia vẫn còn phải học hỏi nhiều. Nhưng không có một đường chì nào là thừa thãi, cũng như không có một mặt phẳng cần thiết nào bị thiếu. Các cấu trúc trông chân phương và giản đơn; cho đến khi người ta nhìn chúng thật kỹ và nhận ra quá trình lao động, sự phức tạp về phương pháp, và sự tập trung tư tưởng mà người vẽ chúng đã phải có trước khi anh ta đạt tới sự giản đơn này. Mọi chi tiết trong các bản vẽ đều phá luật. Các tòa nhà không theo kiến trúc Cổ điển, không theo kiến trúc Gothic, mà cũng chẳng theo kiến trúc Phục hưng. Chúng là kiến trúc Howard dừng lại ngắm một phác thảo. Nó là bản vẽ mà anh chưa bao giờ thấy hài lòng. Anh đã thiết kế nó như một bài tập mà anh tự đặt ra cho chính mình, ngoài các bài tập ở trường; anh thường làm như thế này khi phát hiện ra một địa điểm nào đó và nghĩ xem miếng đất ấy sẽ phải có một tòa nhà như thế nào. Anh đã mất hàng đêm nghiên cứu bản phác thảo này, băn khoăn không biết mình đã bỏ qua cái gì. Bây giờ khi nhìn nó, anh nhận ra cái lỗi mà mình mắc vung mạnh tay để trải bản phác thảo lên trên mặt bàn. Anh cúi người xuống và vạch những đường thẳng cắt ngang bản vẽ gọn gàng của mình. Thỉnh thoảng anh dừng lại để nhìn; các đầu ngón tay anh ấn lên trang giấy như thể bàn tay anh đang bám vào tòa nhà. Bàn tay anh có những ngón dài, những mạch máu to khỏe, khớp và xương cổ tay trồi hẳn tiếng sau anh nghe thấy tiếng gõ cửa.“Mời vào!” anh cáu kỉnh nói, không hề ngừng vẽ.“Cậu Roark!”, bà Keating ngạc nhiên nhìn anh từ ngưỡng cửa. “Quỷ tha ma bắt, cậu đang làm gì thế?”Anh quay lại nhìn bà, cố nhớ xem bà là ai.“Thế còn ông Trưởng khoa?”, bà than vãn. “Ông Trưởng khoa đang chờ cậu.”“À,” Roark bừng tỉnh. “À, vâng. Cháu quên mất.”“Cậu… quên mất?”“Vâng.” Có một chút ngạc nhiên trong giọng nói của anh ngạc nhiên trước sự ngạc nhiên của bà.“Thế đấy, giờ thì tôi chỉ có thể nói là” – bà nghẹn lời – “nhân nào quả nấy. Đáng đời cậu lắm. Bốn rưỡi là lễ bế giảng bắt đầu; giờ thì làm sao ông Trưởng khoa có thời gian mà gặp cậu?”“Cháu sẽ đi ngay lập tức, bác Keating.”Bà hành động không chỉ vì sự tò mò; mà còn vì nỗi sợ hãi mơ hồ rằng hội đồng khoa sẽ hủy bỏ quyết định đuổi học với đi vào phòng tắm ở cuối hành lang; bà quan sát anh rửa tay, vuốt mái tóc thẳng và mềm của mình cho có vẻ trật tự. Anh lại bước ra. Bà chỉ nhận ra rằng anh sắp đi khi anh đã bước tới cầu thang.“Cậu Roark!” bà há hốc miệng và chỉ vào bộ quần áo của anh. “Cậu không định ăn mặc thế này mà đi đấy chứ?”“Sao lại không ạ?”“Nhưng đấy là ông Trưởng khoa của cậu!”“Cựu Trưởng khoa của cháu, bác Keating ạ.”Bà nghĩ, quỷ tha ma bắt, cậu ta nói như thể là cậu ta vui mừng về điều Công nghệ Stanton nằm trên một ngọn đồi. Những bức tường có lỗ châu mai của nó đứng như một chiếc vương miện nổi lên trên thành phố trải rộng phía dưới. Học viện trông như một pháo đài thời Trung cổ với một nhà thờ kiểu Gothic mọc ra từ lưng chừng. Công trình này sẽ là một pháo đài hoàn hảo – giả sử như một học viện thế này có lúc cần biến thành pháo đài. Nó có những bức tường gạch kiên cố và một vài ô trống đủ rộng cho lính gác. Nó có các chiến lũy cho các cung thủ đứng nấp và những tháp canh ở các góc của nó có thể dùng làm nơi đổ dầu sôi xuống đầu những kẻ tấn công pháo đài. Nhà thờ nổi lên trên pháo đài như một đường viền tráng lệ, một sự bảo vệ mỏng manh trước hai kẻ thù khổng lồ ánh sáng và không phòng Trưởng khoa trông như một nhà nguyện; tràn ngập một thứ ánh sáng nhờ nhờ chiếu xuống từ một cửa sổ kính màu cao. Cái ánh sáng nhờ nhờ ấy phải đi xuyên qua những bức trướng vẽ các vị thánh kiên nghị – tất cả đều trong tư thế khoanh tay. Hai luồng sáng nhỏ màu đỏ và tím chiếu thẳng vào hai hình đầu thú đắp nổi ở hai bên góc cái lò sưởi chưa bao giờ được sử dụng. Một luồng sáng màu xanh lá cây chiếu thẳng vào bức tranh đền Parthenon được treo ngay phía trên lò Roark bước vào văn phòng, anh thấy bóng dáng ông Trưởng khoa hiện ra mờ mờ phía sau cái bàn làm việc được chạm trổ như một cái cửa sổ xưng tội . Ông Trưởng khoa là một người thấp, phệ với những khối thịt chảy xệ được cố che giấu bằng một vẻ nghiêm nghị cứng nhắc.“À, phải, Roark,” ông mỉm cười. “Anh ngồi đi.”Roark ngồi xuống. Ông Trưởng khoa đan các ngón tay trước bụng, chờ đợi những lời cầu xin. Nhưng chẳng có lời cầu xin nào cả. Ông hắng giọng.“Tôi thấy không cần phải nói rằng tôi rất tiếc vì sự việc không may sáng nay,” ông bắt đầu, “tôi chắc anh biết là tôi thực sự quan tâm tới quyền lợi của anh.”“Hoàn toàn không cần đâu ạ,” Roark Trưởng khoa nhìn anh hồ nghi nhưng vẫn tiếp tục nói.“Khỏi cần phải nói, tôi không bỏ phiếu chống lại anh. Tôi bỏ phiếu trắng. Nhưng có lẽ anh sẽ vui mừng nếu biết rằng có một nhóm nhỏ kiên quyết bảo vệ anh tại cuộc họp khoa. Một nhóm nhỏ nhưng rất kiên quyết. Ông giáo sư kỹ thuật kết cấu của anh đã liều chết tranh đấu cho anh. Ông giáo sư toán cũng thế. Tiếc là những người cảm thấy mình có trách nhiệm phải bỏ phiếu đuổi học anh lại nhiều hơn đáng kể so với số còn lại. Giáo sư Peterkin, người phản biện thiết kế, thậm chí đặt vấn đề khá gay gắt. Ông ấy dọa chúng tôi là sẽ từ chức nếu không đuổi học anh. Anh thấy đấy, anh thực sự đã làm cho giáo sư Peterkin rất tức giận.”“Em biết.” Roark trả lời.“Đấy, vấn đề là chỗ đấy. Tôi đang nói về thái độ của anh đối với môn thiết kế kiến trúc. Anh không bao giờ chú trọng đúng mức cho môn học. Thế mà anh đã học rất xuất sắc các môn kỹ thuật. Tất nhiên, không ai phủ nhận tầm quan trọng của môn kỹ thuật kết cấu đối với một kiến trúc sư tương lai, nhưng tại sao lại phải thái quá như thế? Tại sao lại lơ là mặt nghệ thuật và cảm hứng nghề nghiệp để tập trung vào những môn học tính toán, kỹ thuật và khô khan như vậy? Anh định trở thành một kiến trúc sư chứ có phải là một kỹ sư xây dựng đâu.”“Có lẽ điều này là thừa, phải không ạ?” Roark hỏi. “Mọi việc đã qua rồi. Chúng ta đâu cần tranh luận về việc em chọn học gì.”“Roark, tôi đang cố giúp anh. Anh phải công bằng về việc này. Không thể nói là anh đã không được cảnh báo rất nhiều lần trước khi chuyện này xảy ra.”“Em đã được cảnh báo.”Ông Trưởng khoa cựa mình trên ghế. Roark làm ông cảm thấy không thoải mái. Ánh mắt của Roark nhìn thẳng vào ông một cách lịch sự. Cậu ta nhìn thế chẳng có gì sai – ông Trưởng khoa nghĩ – thực ra còn đúng mực là đằng khác, thậm chí rất đúng mực; chỉ có điều… cứ như thể ta không hề có mặt ở đây vậy.“Đối với mọi bài tập mà anh được giao,” ông Trưởng khoa tiếp tục, “mọi đề án mà anh phải thiết kế – anh đã làm gì với chúng nào? Anh xử lý chúng theo kiểu – ừm, tôi không thể gọi nó là một phong cách – theo kiểu kỳ quặc của anh. Nó đi ngược với mọi nguyên tắc mà chúng tôi đã cố dạy anh, ngược với tất cả những tiền lệ và truyền thống đã được công nhận của nghệ thuật. Anh có thể nghĩ anh sáng tác theo kiểu mà người ta gọi là chủ nghĩa hiện đại, nhưng thậm chí cũng không phải như vậy. Nếu anh không phiền… nó… nó hoàn toàn điên rồ.”“Em không phiền.”“Khi người ta giao cho anh các đề án mà anh được tự do lựa chọn phong cách thì anh biến chúng thành những thử nghiệm mạo hiểm của anh – ừm, thật lòng mà nói, các giáo sư đã cho anh qua vì họ cũng chẳng biết phải đánh giá những thứ đó thế nào. Nhưng, khi anh được giao một bài tập thiết kế theo phong cách truyền thống… thiết kế một nhà nguyện kiểu Tudor hoặc một nhà hát opera kiểu Pháp – và anh lại biến nó thành một cái gì đó trông như vô vàn những cái hộp chồng lên nhau một cách vô nghĩa – thì, nói cho tôi nghe xem, anh nghĩ đấy là một bài thi hay là sự chống đối?”“Đó là sự chống đối.” Roark nói.“Vì nghĩ đến thành tích học tập xuất sắc của anh ở các môn khác, chúng tôi đã muốn cho anh một cơ hội. Nhưng khi anh nộp cái này” – ông Trưởng khoa nện nắm tay xuống một tờ giấy trải rộng trước mặt – “cái này mà anh dám nộp làm bài thi cuối năm về biệt thự Phục hưng thì, chàng trai ơi, thật sự là không thể chấp nhận được nữa.”Tờ giấy đó có một hình vẽ – một ngôi nhà bằng kính và bê tông. Ở góc tờ giấy có một chữ ký sắc nét và góc cạnh Howard dẫn Trích dẫn sách Suối Nguồn - Người sáng tạo sống với lao động của mình. Anh ta không cần ai khác. Mục đích cơ bản của anh ta là chính bản thân anh. Kẻ ăn bám sống cuộc đời thứ cấp. Anh ta cần những người khác. Những người khác trở thành động lực chính của anh ta. 1. “Anh ta… Đọc thêmThể loại Những quyển sách hay nhất của Ayn Rand - Sách của Ayn Rand dành cho những con người có trái tim quyết liệt, đam mê và cháy bỏng đến tận cùng trong hành trình tự khẳng định bản thân mình, đi đến tận cùng bản ngã và hạnh phúc cá nhân. Suối Nguồn "... Trong lịch sử nhân loại, hiếm thấy ai phát biểu… Đọc thêm 20 cuốn sách văn học nước ngoài hay không nên bỏ qua trong đời - Văn học nước ngoài là một trong những dòng sách có lượng đọc giả và giải thưởng văn chương nhiều nhất trên thế giới, điều đó chứng tỏ giá trị và sức truyền tải của thể loại này là vô cùng to lớn. Hãy cùng Vnwriter điểm qua 20 cuốn sách văn học nước ngoài hay… Đọc thêm Sách hay nên đọc trong đời dành cho mọi thế hệ độc giả - Sách hay nên đọc trong đời bao gồm nhiều chủ đề văn học, kinh doanh, kỹ năng, khoa học,..mỗi quyển sách được giới thiệu đều chứa đựng những giá trị tuyệt vời dành cho mọi thế hệ độc giả. Văn học Bố Già Thế giới ngầm được phản ánh trong tiểu thuyết Bố già… Đọc thêm 19 sách kinh điển hay đọc rồi cứ muốn đọc lại mãi - Sách luôn là món quà tuyệt vời dành cho mỗi chúng ta, Vnwriter gợi ý 19 cuốn sách kinh điển hay mà nhiều người đọc rồi muốn đọc lại, là những cuốn sách gối đầu giường không thể bỏ qua. Bố Già Thế giới ngầm được phản ánh trong tiểu thuyết Bố già là sự… Đọc thêmNơi bánFREESHIP cho đơn hàng từ 99k tại và Hà Nội, từ 149k tại các tỉnh thành khác. Nhận hàng ngay chỉ trong vài giờ với gói TIKINOW tại HN, Cần Thơ, Đà Nẵng, Nha Trang, Hải Phòng, giảm ít nhất 15% cho nhiều đầu sách bán chạyTới nơi bánFREESHIP cho đơn hàng từ 140k tại và Hà Nội, từ 250k tại các tỉnh thành khác, giảm ít nhất 15% cho nhiều đầu sách bán nơi bánFREESHIP cho đơn hàng từ 150k tại và Hà Nội, từ 250k tại các tỉnh thành khác, giảm ít nhất 15% cho nhiều đầu sách bán NƠI BÁNReview nổi bậtThế giới mà Ayn Rand xây dựng trong Suối Nguồn không có chỗ cho các gam màu xám, chỉ thuần túy trắng và đen. Sự đẩy đến hai đầu cực tuyệt đối này đem đến cho người đọc lăng kính độc đáo để nhìn lại chính mình và xã hội xung Rand 1905-1982 là tiểu thuyết gia, đồng thời là nhà triết học người Mỹ gốc Nga. Từ 8 tuổi, Rand đã quyết định trở thành nhà văn. Lựa chọn này dẫn dắt bà chạy trốn khỏi nước Nga, trở thành nhà văn với hàng triệu bản được bán, thách thức dư luận chính thống khi sáng tạo một triết lý mới gọi là Chủ nghĩa Khách quan và tạo ra một di sản gây tranh cãi vẫn còn được tranh luận đến bây với Ayn Rand, triết học không chỉ là một chủ đề đặc biệt cho số ít, mà là động lực hằng ngày hình thành nên cuộc sống của những cá nhân và lịch sử loài người. Bạn phải có hình dung về thế giới bạn sống, thấu hiểu và xử lý theo cách tốt nhất và biết mục tiêu cuộc đời bạn là gì. Động lực cho những tác phẩm của bà luôn luôn là sự hiện diện của một con người lý một trong hai cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất của Ayn Rand, Suối Nguồn được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1943. Bản thảo cuốn sách đã bị 12 nhà xuất bản từ chối, một số trong đó tuyên bố rằng nó “quá triết lý”, “quá nhạy cảm” và sẽ không thể bán được vì không tồn tại độc giả cho cuối cùng, nó lại được đón nhận nồng nhiệt. Ayn Rand trở thành tác giả có ảnh hưởng lớn nhất đến độc giả Mỹ trong thế kỷ XX và tác phẩm đã bán được 6 triệu bản trong hơn 60 năm qua kể từ khi xuất bản lần đầu năm 1943, được dịch ra nhiều thứ tiếng và vẫn liên tục được tái bản hằng như triết học, Ayn Rand biết tác phẩm chỉ được thấu hiểu bởi một số ít người trong mỗi thời đại. “Đó cũng là đối tượng mà tôi hướng đến. Những người còn lại, tôi không quan tâm. Cái họ phản bội không phải là tôi hay là cuốn sách này. Họ phản bội chính bản thân họ”, bà viết trong lời giới thiệu nhân kỷ niệm 25 năm xuất bản cuốn Roark, nhân vật chính của Suối Nguồn, sở hữu 3 đức tính đặc sắc của con người hành động bằng lý trí, độc lập và có lòng tự trọng cao. Khi người đọc lần đầu tiên chạm trán Howard Roark, họ bị choáng ngợp bởi sự độc lập hoàn toàn của anh. Trong tất cả lĩnh vực, từ công việc cho đến cuộc sống, từ quan điểm về kiến trúc đến kế hoạch công việc đến việc lựa chọn bạn bè, anh chỉ nghĩ về mình, đánh giá bản thân mình và ra quyết định chỉ dựa trên suy nghĩ và đánh giá của chính ngược với sự độc lập tự chủ của người hùng là các nhân vật khác, những biến thể muôn hình vạn trạng của ý tưởng sống thứ sinh. Những người sống thứ sinh này đều thể hiện sự phụ thuộc cơ bản vào người khác. Đó có thể là trong việc tìm kiếm sự công nhận của xã hội như thước đo giá trị của họ, hoặc đi theo ý kiến của những người khác, hoặc cố gắng thống trị người khác. Một trong những cái nhìn sâu sắc, độc đáo của Ayn Rand là ý tưởng về việc theo đuổi quyền lực chỉ là một biến thể của sự phụ thuộc của những người tìm cách cai Roark thể hiện hoàn hảo tính cách của tác giả Ayn Rand. Anh không quan tâm đến việc người khác muốn gì, nghĩ gì. Là kiến trúc sư, anh biết mình muốn thiết kế “tòa nhà sẽ mọc lên từ những mảnh đất đó và hòa hợp với không gian xung quanh”, anh không khoan nhượng bất cứ điều gì can thiệp vào thiết kế của anh và hiểu cho dù có rất ít khách hàng hiểu anh, nhưng anh sẽ vẫn có khách hàng và sẽ vẫn xây nên những tòa nhà vĩ kế của anh không sao chép bất cứ trường phái truyền thống nào, chúng chỉ đơn giản là thiết kế của Howard Roark. Điều đó dẫn anh đến cuộc đấu tranh đầy đau khổ chống lại cả thế giới bị thống trị bởi những người sùng bái truyền thống, cách họ tiếp cận để thiết kế những tòa nhà là sao chép phong cách kiến trúc của quá khứ. Đây cũng chính là cuộc đấu tranh để nhìn nhận bản thân trong mỗi con Yên
Giới thiệu sáchĐọc thêmSống thứ sinh Nguồn gốc sự bất hạnh của con ngườiÝ nghĩa của tiền bạc"Số lượng người" không thể thay cho chân lý Đọc sách Suối NguồnVị nhân sinh đúng hay sai?25 câu nói của Ayn Rand – một trong những triết gia hàng đầu của chủ nghĩa tự doTác phẩm "Suối nguồn" của nữ tiểu thuyết, triết gia Mỹ Ayn Rand. “Suối nguồn” giúp chúng ta tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi căn cốt- Thế nào là một người sống thứ sinh?- Tại sao những kẻ sống thứ sinh lại sơ hãi những người tư duy độc lập?- Mục đích cuộc đời anh ta là gì?- Chúng ta thường hỏi nguồn gốc của mọi hành vi ti tiện, xấu xa trong xã hội là gì?- Thảm hoạ của thế giới là gì?- Làm thế nào để tránh được thảm họa?- …“Suối nguồn” của Ayn Rand viết về một xã hội nhỏ của ngành kiến trúc và có liên quan tới báo chí, song chỉ cần đổi hai chữ kiến trúc thành công nghiệp phần mềm cũng phù hợp. Tác phẩm đã có tác động sâu sắc tới sự phát triển cơ sở thượng tầng tư tưởng của xã hội Mỹ và bao công dân xứ cờ hoa đã lột xác về nhận thức và thay đổi cuộc đời từ những dòng chữ của Cuốn sách lọt top những tiểu thuyết hay nhất thế kỷ 20, với hơn 6 triệu bản được bán Tiểu thuyết kể về anh chàng kiến trúc sư không bằng cấp Howard Roak. Anh luôn đi ngược lại với dòng chảy quyền lực, mưu mô của xã Anh luôn dựng lên những công trình khiến người khác phải trầm trồ, và cũng vì lẽ đó là anh bị vùi dập không tiếc Nhưng đến cuối cùng anh vẫn giữ niềm đam mê, tinh thần tích cực, và đã được đền nhân vật của tiểu thuyết gồm Peter Keating, Ellsworth Toohey, Gail Wynand và Howard Keating, nhà kiến trúc sư vốn đam mê hội họa, nhưng vì ước nguyện vật chất và trách nhiệm với người mẹ mà phải đưa mình vào thế giới kiến trúc xa hoa. Peter là mảnh tâm hồn hèn hạ và thối nát của con người. Anh ta luôn sống thứ sinh đời sống được định nghĩa bởi người khác, hành động được hướng dẫn bởi ý chí của người khác. Peter chỉ có thể thấy mình khi nhìn vào trong mắt của những người khác, khi thấy được sự tung hô của đám đông dành cho mình. Và đau khổ thay, sự tung hô đó, sự ngưỡng mộ trong ánh mắt đó lại dành cho những tài năng mà anh ta cũng vay mượn từ người khác. Ngạo nghễ và hoang tưởng trên tiền tài danh vọng, Peter tự coi mình là vua, là cây đinh của mọi quần thể ưu tú, mà không biết rằng hắn chỉ là con kiến bị đàn vô tình dồn đẩy lên vị trí cao trong cuộc chén mồi man rợ. Để rồi, đến già tuổi đời làm việc và cống hiến, Peter mới nhận thấy sự trống rỗng bao trùm, và bắt đầu hành trình tìm kiếm linh hồn của mình bằng những nét cọ sau ngần ấy năm tuổi trẻ, ở cái thời điểm mà Howard Roark chua xót “Đã trễ rồi, Peter, đã quá trễ!”.Không ngu ngốc như Peter Keating, Ellsworth Tooheythật vĩ đại, nhưng vẫn ngu ngốc theo một cách vĩ đại. Ellsworth thấu rõ tâm can của quần chúng. Ông ta biết được tất cả lũ người đang chen chúc vô định nhưng lại rất hồ hởi đang cần gì những con người vĩ đại bài xích cái tôi để dựa vào, những đức tin mơ hồ mông muội để làm theo; bởi họ không có một đức tin vào mình. Ellsworth là người vĩ đại. Ông thấu hiểu được quần chúng và làm cho quần chúng tin mình, nhưng Ellsworth không tin vào sự tỏa sáng của linh hồn cá nhân, đó là sự ngu dốt lớn nhất, là sai lầm lớn nhất của đời Ellsworth. Thay vì hướng quần chúng vào sự thánh thiện, Ellsworth làm cho họ bán đức tin của mình, chạy theo những giá trị phù phiếm, từ đó giành lấy quyền lực. Nhờ những hoa ngôn của Ellsworth, quần chúng điên cuồng tin vào văn học sáo rỗng của Lois Cook; tin vào đống rác rưởi trên sân khấu kịch nói của Ike; tin vào mớ xã luận ngu dốt của Lancelot Clokey. Nhờ đó Ellsworth có quyền lực, quyền lực của đức tin đặt nhầm chỗ. Nhưng kết lại, bản thân Ellsworth cũng là kẻ đánh mất linh hồn đáng Wynand, nhà tài phiệt trong ngành truyền thông, có một nửa phần của Ellsworth Toohey, nửa phần kia là một con người giận dữ. Ông giận dữ vì sự lạc lõng của linh hồn mình. Gail không thể thấy bên mình một con người sáng suốt, một con người chưa bán đi phần nào của linh hồn. Và giận dữ hơn khi Gail biết rõ rằng đám đông người ngoài kia toàn là lũ sống thứ sinh như thế, chỉ biết sống bám vào sự tồn tại của người khác. Hầu hết cuộc đời mình, Gail sử dụng sự thấu hiểu đó để gom lấy tiền tài, danh tiếng và cả tai tiếng. Với tờ báo “Ngọn cờ New York”, Gail cho công chúng những gì họ muốn thấy tình dục, tai tiếng, sự nhơ bẩn của xã hội … Một tờ báo bẩn thỉu và không có chính kiến đúng nghĩa, nhưng là tờ báo ăn khách nhất và mang lại nhiều tiền của nhất cho đế chế Gail Wynand. Và như “Ngọn cờ New York”, Gail đã phải chôn sâu cái tôi của mình để đi theo cái xô bồ của công chúng; ám ảnh đến mức ông đã xây một căn phòng ngủ tách hẳn với thế giới; và mỗi giây mỗi phút, Gail lại đau khổ rút bớt con người mình ra khỏi cuộc đời. Để trả thù, Gail ra tay tàn phá những con người có linh hồn, nhưng lại không xứng đáng với cái tôi, cái tài của chính họ; cho đến khi Gail gặp được Howard cuối cùng là tượng đài về cái tôi của con người Howard Roark. Anh là nhà kiến trúc sư liều lĩnh trong cả suy nghĩ và hành động. Gạt bỏ xu hướng kiến trúc Phục Hưng, Gothic ….cổ điển mà công chúng đang theo đuổi mù quáng; Howard đi theo tiếng gọi của lí trí để dựng nên những công trình ngạo nghễ mang dấu ấn của mình và mang trong nó khao khát của những người chủ nhân. Howard không màng dư luận, không màng những gì người ta nghĩ gì về mình, bởi anh biết anh có thể sống và tỏa sáng mà không cần sự tồn tại của người khác; anh không cần có ai đó thì anh mới định nghĩa được giá trị con người anh. Howard cực đoan, bạn sẽ nghĩ như vậy, và tôi cũng nghĩ vậy; bởi ta không thể tin được sự nguyên vẹn đến hoàn hảo như thế của một tâm hồn. Nhưng hãy nghe Howard Roark nêu lên tuyên ngôn của mình, cũng là cái chốt của “Suối Nguồn”Tác phẩm vẫn mang đậm tính thời đại ngày nay. Vài bài học rút ra như sau- Bạn có điểm mạnh, lý tưởng và đức tin, song bạn cũng cần sự thấu hiểu và thông cảm với cộng đồng. Có thể cộng đồng chưa biết và chưa kịp hiểu hết những gì xuất sắc bạn làm, song bạn cần thay đổi để hoà nhập với cộng đồng. Nhân vật hoà nhập cộng đồng là kiến trúc sư tốt nghiệp xuất sắc Peter Keating, nhân vật lý tưởng cá nhân hoá, kiến trúc sư chưa tốt nghiệp Howard Roark. Và bạn nên hoà nhập với cộng đồng để có thể sống như những người khác. Không sẽ rất khó khăn với Truyện thể hiện khá bất khuất cái kiên cường của lý tưởng cá nhân. Thể hiện cái gọi là chân lý không thuộc về số đông rất rõ ràng. Có thể bạn bị chết đói, bị ném gạch mắng chửi. Song bạn ko hề phản ứng, mặt vẫn lạnh tanh bảo vệ quan điểm. Bây giờ ở VN hơi ít cái này hơi tý là dựa vào quyền lực, bố mẹ, con cháu, tiền bạc, dục vọng...- Về thủ đoạn có thể nói Any Rand rất thành công xây dựng thủ đoạn, về loại bỏ đối thủ của Peter Keating, về cách làm "nổi tai tiếng" của ai đó của Ellsworth M. Toohey - chủ một cột báo trong tờ Ngọn cờ NewYork, tờ báo bình luận các toà nhà được thiết kế. Một ý chí chiến đấu khá ngoan cường của Dominique Francon, người yêu của Roark, rồi là vợ của Keating, chỉ với mục đích giải oan cho Roark, và tiếp theo làm vợ Gail Wynand, nhà tài phiệt chủ tờ Ngọn cờ, cũng để chiến đấu vơi tâm lý của kẻ đã gieo mầm hại Những kết cục Có những nhân vật sau khi đã đạt được mọi quyền lực bỗng nhận ra những mất mát và thấy hổ thẹn vì những cái gì mình tạo nên đều dưa trên những thối nát mục rữa, cảm thấy bất mãn với những gì có được cho chính mình, vì trươc kia họ cũng từ những đói khổ mà nên. Có những nhân vật khi buộc những nhân tài khác không theo được ý tưởng mình đã trở nên bứt dứt, ko điều khiển được chính bản thân. Có những nhân vật luôn thấy bình an ở trong mọi chuyển động hỗn độn của cuộc đời. Có lẽ những bạn trẻ VN cần học theo đối tượng thứ 3 này. Điều phi lýTruyện dài, song có vẻ như ngành kiến trúc của Mỹ những năm 40x chỉ có 1-2 nhà kiến trúc. A. Rand quá đề cao 1-2 nhân vật này, mà thực tế cũng phi lý cái kết quả làm việc của họ. Thực tế là, con người khó tính hơn nhiều khi xem một bản thiết kế. Thực tế có những toà nhà rất quan trọng song được xem nhẹ và gần như không thiết kế cẩn thận- nó như kiểu rửa tiền, lại không được cụ nhắc đoạn quote tâm đắc "Em không đứng ở điểm cuối của bất cứ truyền thống nào. Em có thể đứng ở điểm khởi đầu của một truyền thống." Howard Roark“Đây không phải là thế giới nó đã là, mà là một thế giới nó sẽ là” Howard Roark"Có những người nhận ra thế-nào-là-tốt-nhất nhưng lại không muốn đạt được điều đó?" Mallory"Điều tồi tệ nhất phải là giết chết khả năng giả vờ có lòng tự trọng." Dominique"Và ở đây, loài người đối mặt với lựa chọn cơ bản nhất của mình anh ta chỉ có thể tồn tại được theo một trong 2 cách - bằng cách làm việc độc lập với bộ óc của riêng anh ta, hay là trở thành một kẻ ăn bám sống nhờ bộ óc của những người khác. Người sáng tạo chọn cách thứ nhất. Kẻ ăn bám chọn cách thứ hai." Howard Hoawk"Em phải học cách không sợ hãi thế giới này. Không để nó nắm giữ em như bây giờ nó đang nắm giữ em. Không để nó làm em tổn thương như nó đã làm em tổn thương... Anh phải để em tự học lấy điều đó. Anh không thể giúp em. Em phải tự tìm lấy cách của mình..." Howard Roark"Đầu tiên phải có sáng tạo, sau đó mới là phân phối, nếu không thì chẳng có gì để phân phối cả. Phải có người sáng tạo trước khi có những người hưởng lợi từ sự sáng tạo" Howard Roark"Anh ta là ai và anh ta tự tạo ra cái gì, chứ không phải anh ta đã làm được hoặc không làm được gì cho người khác." Howard Roark"Chỉ khi có người bị bệnh thì mới cần có người đến để giúp giảm bớt sự đau đớn. Còn nếu chúng ta biến việc giảm khổ đau thành phép thử lớn nhất của đức hạnh thì chúng ta đã biến khổ đau thành một thứ quan trọng nhất trong cuộc sống. Do vậy người ta sẽ mong muốn được nhìn thấy những người khác đau khổ – để người ta có thể trở thành người đức hạnh…" Howard Roark"Chiếc máy bay đầu tiên bị coi là không tưởng. Chiếc máy dệt đầu tiên đã bị coi là ác quỷ. Việc gây mê bị coi là tội lỗi. Nhưng những người đó, với tầm nhìn không vay mượn, vẫn tiếp tục tiến lên. Họ đã chiến đấu, họ đã đau khổ và họ đã phải trả giá. Nhưng họ đã chiến thắng” Howard Roark”Hàng ngàn năm trước đây, có một người lần đầu tiên tìm được cách tạo ra lửa. Người đó có lẽ đã bị thiêu sống bằng chính ngọn lửa mà anh ta dạy những người anh em của mình cách thắp lên. Anh ta bị coi là một kẻ xấu vì đã có quan hệ với ma quỷ, thứ mà loài người luôn khiếp sợ. Nhưng từ đó trở đi, loài người có lửa để giữ ấm, để nấu nướng, để thắp sáng trong hang động. Anh ta đã để lại cho họ một món quà mà họ từng không hiểu và anh ta đã xua bóng tối ra khỏi trái đất này" Howard RoarkFacebookTwitterLinkedInPinterestCập nhật lúc1044 CH 29/09/2016
trích tiểu thuyết suối nguồn